Tiểu sử của Nguyễn Cư Trinh (1691 - 1725)

Nguyễn Cư Trinh quê ở xã An Hòa, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên – Huế), sanh năm Bính Thìn 1716, tên chữ là Nghi, hiệu Đạm Am, con út của danh sĩ Nguyễn Đăng Đệ - Ký lục tỉnh Quảng Nam dưới triều Chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725), nổi tiếng học giỏi từ nhỏ và thanh liêm, công bằng chính trực lúc làm quan.

Nguyễn Cư Trinh (1691 - 1725):

Cuộc đời và sự kiện liên quan đến Nguyễn Cư Trinh:

Năm Tuổi Địa điểm Sự kiện
1691 ... ... Nguyễn Cư Trinh được sinh ra
1725 34 tuổi ... Nguyễn Cư Trinh mất

Thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Cư Trinh:

Nguyễn Cư Trinh quê ở xã An Hòa, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên – Huế), sanh năm Bính Thìn 1716, tên chữ là Nghi, hiệu Đạm Am, con út của danh sĩ Nguyễn Đăng Đệ - Ký lục tỉnh Quảng Nam dưới triều Chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725), nổi tiếng học giỏi từ nhỏ và thanh liêm, công bằng chính trực lúc làm quan.


Cũng như cha, ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, hiếu học. Năm Canh Thìn (1740) đỗ Hương cống, được bổ làm Tri phủ huyện Triệu Phong ( Quảng Trị). Sau đó được thăng chức Văn chức, về làm việc tại triều. Ông chẳng những thanh liêm, chính trực như cha mà còn dám nói thẳng, dám can gián Chúa không hề sợ sệt. Bạn đồng liêu thường cho ông là một Tranh thần. Ông còn là một vị quan nhiều mưu lược, phán đoán sự việc chính xác nên thường xuyên được Chúa mời hỏi ý kiến về các vấn đề quốc quân trọng đại và phụ trách soạn thảo chiếu chỉ cho Chúa.

Dưới thời Chúa Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765), miền Tây Quảng Ngãi thường xuyên bị bọn cướp quấy phá, gây rối ở biên giới, quan địa phương không ổn định được tình hình. Năm Canh Ngọ (1750), Nguyễn Cư Trinh được điều tới làm Tuần phủ, với nhiệm vụ trọng tâm là tiểu trừ giặc cướp, ổn định an ninh biên giới.

Vào năm 1750 Võ vương bổ Nguyễn Cư Trinh làm Tuần phủ Quảng Ngãi lo việc trị an và phủ dụ sắc dân Hré. Sau khi nghiên cứu, xem xét sinh hoạt, cá tính của người Hré, Nguyễn Cư Trinh đem khả năng và tài trí của mình ra thuyết phục nhưng không thành.

Thuyết phục không xong ông quyết định tiến đánh, nhưng trước khi tiến quân ông đã sáng tác tác phẩm Sãi Vãi để vạch rõ những khối óc mê tín dị đoan, cùng sự sa đọa của một số sư sãi đồi trụy mà nhân dân vẫn còn mê muội tin theo.
Tác phẩm ra đời cùng chiến công hiển hách ấy, Nguyễn Cư Trinh vừa đúng 35 tuổi. Đối với Nguyễn Cư Trinh qua Sãi Vãi và nhiều người khác – tu là sống và sống là tu như quan niệm phóng khoáng, cởi mở của đạo thiền.

Năm Đinh Hợi (1767) ông bệnh và mất, hưởng dương 51 tuổi, được truy tặng Tá lý công thần, Vinh lộc đại phu, thụy Văn Định.

Tài liệu tham khảo:

Nhân vật cùng thời kỳ với Nguyễn Cư Trinh:

Nguyễn Hữu Cảnh (1650 - 1700)

  • 2 thg 12, 2
  • 423

Nguyễn Hữu Cảnh 1650-1700 tên thật là Nguyễn Hữu Thành, húy Kính, tộc danh là Lễ, là một danh tướng thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Ông được xem là người xác lập chủ quyền cho người Việt tại vùng đất Sài Gòn-Gia Định vào năm 1698.

Hoàng Công Chất (1706 - 1769)

  • 2 thg 12, 2
  • 114

Hoàng Công Chất tên là Hoàng Công Thư, xuất thân trong một gia đình nghèo (gốc họ Mạc) người làng Hoàng Xá, huyện Thư trì, trấn Nam sơn hạ, nay thuộc xã Nguyên Xá, huyện Vũ thư, tỉnh Thái Bình. Ông là một lãnh tụ nông dân kiệt xuất, dựng cờ khởi nghĩa chống lại triều đình Lê Trịnh cứu dân nghèo vì nghĩa lớn “Bảo Quốc an dân” diệt cường hào ác bá, lấy của giàu chia cho dân nghèo, với hoài bão xoá bỏ bất công, lập lại kỷ cương, phục hưng đất nước thống nhất giang sơn, thái bình muôn thuở.

Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748)

  • 29 thg 9, 2014
  • 137

Đoàn Thị Điểm hiệu là Hồng Hà Nữ sĩ, biệt hiệu là Ban Tang, quê quán ở làng Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Bà chính họ là Đoàn, nhưng vì bà lấy chồng họ Nguyễn (ông Nguyễn Kiều), nên có sách chép bà là Nguyễn Thị Điểm. Bà là con gái ông hương cống Đoàn Doãn Nghi. Mẹ bà là người họ Vũ và là vợ hai ông Nghi, nhà ở phường Hà Khẩu, Thăng Long (phố Hàng Bạc bây giờ), sinh một trai (1703) là Đoàn Doãn Luân và một gái (1705) là Đoàn Thị Điểm. Từ nhỏ anh em bà đã theo mẹ về ở với ông bà ngoại là quan Thái Lĩnh Bá và được dạy dỗ chu đáo, lầu thông Tứ thư, Ngũ kinh. Bà là tác giả tập truyện Truyền kỳ tân phả, và là dịch giả bản Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn.Bà là người được đánh giá là bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn trong những nữ sĩ danh tiếng nhất, bên cạnh là Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan và Sương Nguyệt Anh.

Nguyễn Đăng Đạo (1651 - 1719)

  • 29 thg 9, 2014
  • 118

Nguyễn Đăng Đạo là một trong số rất ít trạng nguyên làm quan tới chức tể tướng thời Lê trung hưng. Ông còn có tên là Trạng Bịu. Ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, hoạt bát.

Nguyễn Cư Trinh (1691 - 1725)

  • 1 thg 11, 2014
  • 96

Nguyễn Cư Trinh quê ở xã An Hòa, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên – Huế), sanh năm Bính Thìn 1716, tên chữ là Nghi, hiệu Đạm Am, con út của danh sĩ Nguyễn Đăng Đệ - Ký lục tỉnh Quảng Nam dưới triều Chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725), nổi tiếng học giỏi từ nhỏ và thanh liêm, công bằng chính trực lúc làm quan.

Võ Trường Toản (1709 - 1792)

  • 27 thg 11, 2022
  • 0

Ông hiệu Sùng Đức do chúa Nguyễn Phước Ánh (còn gọi là Nguyễn Ánh, sau thống nhất đất nước trở thành hoàng đế Nguyễn Thế Tổ) phong tặng; là một nhà giáo Việt Nam nổi tiếng "học rộng, có tài thao lược và đức hạnh hơn người" ở Gia Định vào thế kỷ XVIII.

Nguyễn Phúc Thái (1650 - 1691)

  • 30 thg 11, 2022
  • 0

Nguyễn Phúc Thái là người nổi tiếng rộng rãi, giảm nhẹ hình phạt, thuế khoá, trọng dụng quan lại cũ, trăm họ đều vui mừng. Chúa quy định lại tang phục cho có lợi, bởi vì vào thời ấy, mỗi khi có quốc tang thì người dân dù người già, trẻ con đều la khóc kêu gào, bỏ việc đồng áng, lao động. Chúa quy định người trong Tông thất và thân trần để tang 3 năm; cai đội trở lên để tang 2 tuần; Nội ngoại đội chưởng, văn chức, câu kê để tang đến giỗ đầu; còn quân dân để tang đến Tết Trung nguyên (Rằm tháng Bảy).

Nguyễn Nghiễm (1708 - 1776)

  • 7 thg 12, 2022
  • 0

Ông là quan chức, sử gia, nhà thơ thời nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông có công ổn định tình hình Bắc Hà và tham gia chiến dịch đánh chiếm Phú Xuân của Đàng Trong năm 1774-1775. Một trong những người con của ông là đại thi hào Nguyễn Du.

Nguyễn Qúy Đức (1648 - 1720)

  • 7 thg 12, 2022
  • 0

Nguyễn Quý Đức sinh tại làng Thiên Mỗ, thuộc Thăng Long (tức làng Đại Mỗ, nay thuộc phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội). Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, cha ông đỗ sinh đồ, khi ông đỗ Thám hoa cha được ấm phong Đô đài Ngự sử Nguyễn Quý Cường. Năm lên 8 tuổi, Nguyễn Quý Đức theo học với chú họ (tự là Đạo Thông, nguyên là Tri huyện), và nổi tiếng là "kỳ đồng" ngay từ thuở nhỏ. Năm 15 tuổi (1663), ông đỗ Hương cống (cử nhân), được thụ chức Hàn lâm viện Hiệu thảo. Sau đó, ông theo học với Tiến sĩ họ Lê (người làng Tam Lộng, huyện Lôi Dương, Thanh Hóa).

Chủ đề

Liên kết chia sẻ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.

Tranh luật nhân quả trong cuộc sống

tranh_nhan_qua_10

Tranh luật nhân quả trong cuộc sống

tranh_nhan_qua_5